Tre góp phần tạo sinh kế cho người dân, đóng góp cho kinh tế quốc dân, hấp thụ các-bon và chống biến đổi khí hậu, có thể sử dụng làm nguyên liệu thay cho gỗ tự nhiên và hợp chất hóa học, phát triển sinh thái và cảnh quan kiến trúc, lưu giữ và bảo tồn các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Nguyễn Thị Hoàng Yến cho biết, hiện nay, tre đang là nguyên liệu cung cấp cho hơn 600 làng nghề mây, tre đan trên toàn quốc. Trong giai đoạn hiện nay, rừng tự nhiên bị cấm khai thác, rừng trồng sinh trưởng chậm thì các sản phẩm từ tre là một giải pháp tốt thay thế các sản phẩm sản xuất từ gỗ. Nước ta có khoảng 30 chi và 216 loài tre, một số loài hiện đang mang lại giá trị kinh tế cao như luồng, lung, trúc sào, lồ ô, nứa, vầu, bương, tầm vông, tre gai... Cả nước hiện có khoảng 1,6 triệu ha tre, phân bố đều khắp cả nước, với trữ lượng khai thác hằng năm từ 500 đến 600 triệu cây, tương đương 2,5 đến 3 triệu tấn tre. Các sản phẩm từ nguyên liệu tre đang được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng, với tổng giá trị xuất khẩu đạt từ 300 đến 400 triệu USD/năm. Đồ gia dụng, ván ép, mành, chiếu, tre đan, giấy, bàn ghế... làm từ tre đã có mặt tại thị trường nhiều nước trên thế giới (EU, Anh, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Canada, Ấn Độ...).
Mặc dù có nhiều lợi ích kinh tế, nhưng các chuyên gia kinh tế cho rằng, hiện nay việc phát triển bền vững ngành tre đang gặp rất nhiều khó khăn. Các vùng nguyên liệu tre tại các địa phương hiện có rất ít nguồn giống tre tốt và tre đang có dấu hiệu suy thoái; diện tích bị thu hẹp dần, trình độ canh tác tre còn manh mún, quy mô thấp, công nghệ chế biến lạc hậu. Bên cạnh đó, sản phẩm tre sau chế biến hiện chưa đa dạng, công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm còn yếu, thông tin thị trường còn thiếu; trong khi các chính sách hỗ trợ và phát triển còn nhiều bất cập, vốn đầu tư chưa nhiều, sản phẩm lưu thông, tiêu thụ trên thị trường chủ yếu là sản phẩm thô... Do đó, cần có định hướng mang tính chiến lược cho ngành tre trong thời gian tới. Cần bảo tồn giá trị văn hóa của cây tre gắn với việc đẩy mạnh giá trị kinh tế của các sản phẩm làm từ tre; đa dạng hóa các sản phẩm, thay thế dần những sản phẩm được làm từ gỗ; xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, có chứng chỉ quản lý theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế.
Để ngành tre sản xuất, chế biến và kinh doanh ổn định, bền vững, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam cho rằng, cần sớm nghiên cứu cải tạo giống tre và áp dụng các phương pháp trồng, chế biến theo công nghệ cao vào sản xuất; xây dựng chuỗi liên kết trong sản xuất, tiêu thụ, quy hoạch hiệu quả các vùng trồng, liên kết vùng nguyên liệu với các làng nghề và thị trường tiêu thụ; xây dựng vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn, gắn với phát triển theo chuỗi giá trị để xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và người sản xuất. Ngành nông nghiệp đang tập trung xây dựng các nguồn nguyên liệu tre đạt chuẩn để sản xuất quy mô lớn. Doanh nghiệp, Nhà nước, người dân cần có trách nhiệm cao thực hiện tốt chuỗi liên kết, các hợp tác xã làm tốt vai trò trung gian để duy trì mối liên kết này... Ngoài ra, việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao tay nghề cho người lao động là việc làm hết sức cấp bách. Các làng nghề hiện nay lao động lành nghề rất ít, cần tập trung đào tạo lao động có tay nghề bắt đầu từ bậc phổ thông, tạo điều kiện để người lao động có cơ hội học nghề, có việc làm tốt sau khi đào tạo. Cùng với đó, các doanh nghiệp và người dân mong muốn Nhà nước có chính sách về đất đai, tín dụng, khoa học công nghệ, thị trường tiêu thụ... phù hợp để hỗ trợ xây dựng liên kết theo chuỗi, nhằm đa dạng hóa sản phẩm, tăng cường xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường, thúc đẩy tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm tre ra thị trường thế giới...