Các báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, Đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 70% sản lượng trái cây cả nước nhưng về giá trị xuất khẩu thì khu vực này lại không đem lại giá trị lớn.
Bất ngờ với cây ăn trái Đồng bằng sông Cửu Long
Ông Lê Thanh Tùng, Phó cục trưởng Cục trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, cả nước hiện có khoảng 1,1 triệu héc ta cây ăn trái. Trong đó, riêng khu vực ĐBSCL chiếm diện tích lớn, với khoảng 400.000 héc ta. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là dù có diện tích lớn nhưng phần lớn kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước lại không xuất phát từ vùng này.
Báo cáo của Tổng cục Hải quan cho thấy, 6 tháng đầu năm 2024, ngành rau quả mang về cho Việt Nam trên 2,5 tỉ đô la Mỹ. Trong đó, những loại có giá trị xuất khẩu lớn là sầu riêng với 1,322 tỉ đô la Mỹ, thanh long hơn 292 triệu đô la Mỹ, chuối với 219,4 triệu đô la Mỹ, mít với 171 triệu đô và xoài 156 triệu đô la Mỹ. Đồng bằng sông Cửu Long tuy có nhiều cây trái nhưng lại không phải là nơi đóng góp nhiều nhất vào danh sách của các loại trái cây xuất khẩu đạt tỉ đô, triệu đô này.
Trong đó, với trái sầu riêng, loại đang đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của ngành cây ăn trái, chiếm gần 40% tổng kim ngạch, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt cho biết, Đồng bằng sông Cửu Long không phải là nơi đóng góp nhiều nhất mà là Tây Nguyên. Hiện nay, toàn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có khoảng 30.000 hécta sầu riêng trong khi đó diện tích sầu riêng ở Tây Nguyên lớn gấp đôi.
Với trái thanh long, dù Tiền Giang và Long An được xem là “thủ phủ thanh long” ở miền Tây nhưng tổng diện tích trồng thanh long của hai địa phương này chỉ là 14.000 hécta, ít hơn nhiều so với 25.000 héc ta của tỉnh Bình Thuận.
“Loại cây xuất khẩu tỉ đô la những năm trước là thanh long nhưng Bình Thuận chiếm phấn lớn nhất, không phải Đồng bằng sông Cửu Long”, ông Tùng nói.
Với những sản phẩm mà Đồng bằng sông Cửu Longchiếm ưu thế về xuất khẩu như bưởi, măng cụt, chôm chôm, nhãn… thì giá trị lại không cao khi so với tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Trong đó, 6 tháng đầu năm nay, tổng kim ngạch xuất khẩu bưởi cũng chỉ 28,4 triệu đô la Mỹ; nhãn 14,5 triệu đô la Mỹ còn măng cụt là 1,24 triệu đô la Mỹ.
Với cây cam, loại cây trồng mà vùng có thế mạnh, hàng năm cung cấp ra thị trường khoảng 1 triệu tấn thì chủ yếu chỉ tiêu thụ trong nội địa. Dữ liệu thống kê của Tổng cục hải quan cho thấy, ở phân khúc sản phẩm chế biến, trái cam mang về cho Việt Nam chỉ 1,635 triệu đô la Mỹ trong nửa đầu năm 2024, chiếm 0,05% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành (không có báo cáo thống kê xuất khẩu sản phẩm tươi).
Từ những số liệu trên có thể thấy, dù được mệnh danh là vựa cây ăn trái của cả nước nhưng ĐBSCL không phải là vùng có ưu thế về xuất khẩu trái cây.
Tập trung, đúng loại và chất lượng
Nhiều ý kiến cho rằng, có nhiều nguyên nhân khiến dẫn đến tình trạng trên. Trong đó, có nguyên nhân từ tình trạng canh tác manh mún, chậm thay đổi giống cây trồng và những vấn đề khác liên quan đến việc đáp ứng các quy chuẩn riêng của từng thị trường…
Về diện tích vườn trồng, có rất ít vườn chuyên canh với quy mô lớn tại ĐBSCL. Nguyên nhân một phần do lịch sử hình thành vườn cây ăn trái ở vùng này, người dân thường làm vườn với diện tích nhỏ. Phần nữa là do điều kiện đất thấp nên nhà vườn buộc phải lên liếp để trồng cây dẫn đến mất đi một phần diện tích. Diện tích vườn trồng nhỏ làm ảnh hưởng đến việc cấp mã số vùng trồng vì theo quy định, phải có 10 héc ta liền canh thì mới đáp ứng tiêu chí về diện tích.
“Tốc độ cấp mã số vùng trồng để tham gia xuất khẩu chậm và rất khó cải tạo”, ông Tùng nói.
Một yếu tố khác là nhiều vườn cây ăn trái vùng ĐBSCL là vườn cây cổ, giống cũ. Nhiều nông dân muốn vườn cây đem lại thu nhập lâu dài, đến hàng chục năm nên không bỏ cây cũ để trồng cây mới cho dù thời điểm này đã có những kỹ thuật canh tác hiện đại. Vì vậy, năng suất cây trồng không cao, không đáp ứng được yêu cầu mới của thị trường.
“ĐBSCL có tổng diện tích cây ăn trái rất lớn nhưng lại rất manh mún, nhỏ lẻ, không đạt các tiêu chí về chủng loại, chất lượng an toàn thực phẩm”, ông Tùng nói.
Để giải quyết vấn đề này, nhiều ý kiến cho rằng, cần thay đổi tư duy, thay vì trồng để thu hoạch trong 30-50 năm thì nên thiết kế để thu hoạch trong 5-10 năm, tức là chuyển sang loại cây trồng loại khác khi hết chu kỳ kinh doanh. Nhiều người lập vườn mới ở vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên đã làm việc này, cứ bắt đầu bằng chu kỳ kiến thiết cơ bản và kết thúc ở chu kỳ kinh doanh là người nông dân sẽ trồng loại cây khác.
Theo ông Tùng, để thay đổi tư duy, cơ quan nhà nước phải định nghĩa lại vườn cây ăn trái, là cần canh tác tập trung để người dân có thể cải tạo vườn cũ. Cùng với đó là chuyển đổi cây trồng, có thể cũng là loại cây đó nhưng chuyển sang loại giống được thị trường ưa chuộng hơn. Chẳng hạn, có thể chuyển vườn sầu riêng giống khổ qua xanh, cái mơn sang RI6 hay Monthong, những loại đang được thị trường ưa chuộng.
Liên quan đến việc phát triển ngành cây ăn trái khu vực ĐBSCL, tại toạ đàm “Phát triển chuỗi sản xuất, tiêu thụ cây ăn quả bền vững”, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Tập đoàn Vina T&T cho rằng, cần tổ chức sản xuất sản phẩm đáp ứng yêu cầu chủng loại lẫn chất lượng của thị trường nhập khẩu.
Chẳng hạn, yêu cầu cơ bản của thị trường Mỹ là phải có mã số vùng trồng, nhà máy đóng gói được cấp phép và phải qua xử lý chiếu xạ diệt khuẩn. Đóng gói cũng phải đúng quy cách, đúng chuẩn cho mỗi loại. Chẳng hạn, với trái nhãn thì phải đóng vào thùng carton 4,5 kg, trọng lượng thùng là 700 gam còn đóng vào rổ là 5 kg và trọng lượng rổ là 700 gam… Vì vậy, muốn xuất khẩu được thì cần phải tuân thủ các yêu cầu này và cần lưu ý là mỗi thị trường sẽ có những yêu cầu khác nhau.
Trong khi đó, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, lại lưu ý về vấn đề về chất lượng sản phẩm. Theo ông, tất cả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam ký kết đều có yêu cầu là “rau quả phải đạt tiêu chuẩn an toàn”. Chất lượng quyết định việc tiêu thụ sản phẩm nên nhà vườn phải chú trọng đến vấn đề này.
Rõ ràng, bên cạnh thay đổi tư duy trong sản xuất thì ngành cây ăn trái vùng ĐBSCL cũng cần nâng cấp tiêu chuẩn chất lượng, chọn phân khúc sản phẩm mà thị trường có nhu cầu thay vì trồng đại trà những loại cây trái mà thị trường không ưa chuộng.
Theo KTSGO
Từ đầu năm 2025, hệ thống thanh toán không tiền mặt trong giao thông công cộng sẽ được đưa vào vận hành chính thức trên toàn bộ các tuyến xe buýt có trợ giá tại TPHCM.
Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị xem xét kỹ các dữ liệu về tình trạng thiếu I-ốt trong cộng đồng có thật sự liên quan đến việc cần bổ sung I-ốt trong tất cả loại thực phẩm hay không.
Theo chuyên gia, những nhà bán hàng nước ngoài đã nắm bắt xu hướng tiêu dùng của người Việt và chủ động nguồn hàng hóa để sẵn ở các kho.
Bảng xếp hạng "100 nơi làm việc tốt nhất Việt Nam 2024" của công ty Anphabe gồm khối doanh nghiệp vừa và khối doanh nghiệp lớn. Phần lớn trong danh sách này là các công ty liên doanh hay công ty nước ngoài.
Một nhóm cổ đông lớn của Ngân hàng Eximbank (đang nắm giữ 5,66% vốn điều lệ) nêu trong đơn kiến nghị rằng việc miễn nhiệm ông Ngo Tony, trưởng Ban Kiểm soát của Eximbank, là phạm luật.
Kết quả phát triển nhà ở xã hội chưa như mong đợi bởi còn nhiều khó khăn, vướng mắc